|
BÁ CHỦ TAM QUỐC
Bá Chủ Tam Quốc là game chiến thuật "quốc chiến". ![]() |
là vàng ròng của những người thông sáng – khiến tôi liên tưởng đến loài culi ba móng; còn con culi ba móng, tiêu bản đẹp đẽ của phép lạ cuộc sống, thì lại khiến tôi nghĩ tới Thượng Đế.
Không bao giờ tôi gặp rắc rối với các đồng nghiệp khoa học. Các khoa học gia là một đám người thân thiện, vô thần, chăm chỉ, thích rượu bia và lúc không bận bịu với khoa học thì họ chỉ quan tâm đến tình dục, cờ vua và bóng chày.
Tôi là một sinh viên oách, tôi có thể nói vậy. Tại đại học Thánh Michael, tôi đứng đầu bảng bốn năm liền. Tôi dành được tất cả các phần thưởng cho sinh viên của khoa Động vật học. Nếu như tôi không giành được phần thưởng nào của khoa nghiên cứu tôn giáo thì chỉ đơn giản là khoa này chẳng có một phần thưởng nào dành cho sinh viên ( Chúng ta đều biết rằng các phần thưởng cho việc nghiên cứu tín ngưỡng không nằm trong tay đám phàm phu tục tử như chúng ta ) Còn tấm Huân chương Học Thuật của ngài Tổng đốc, phần thưởng cao quí nhất của Đại học Toronto cho sinh viên phần lớn chỉ dành cho các công dân Canada xuất sắc; nếu không vì cái thằng cu ấy, da trắng hồng, ăn thịt bò, cổ to như gốc cây, hơn hớn ầm ĩ rất khó chịu, thì tôi đã dành được nó rồi.
Tôi vẫn còn thấy đau khổ vì những chuyện nhỏ nhặt. Khi người ta đã chịu nhiều đau đớn ở đời, mỗi một nỗi đau mới sẽ vừa nặng trĩu mà cũng lại chẳng là gì….
Cuộc đời tôi cũng giống như một bức tranh mementomori (2) trong nghệ thuật Châu Âu: lúc nào cũng có một chiếc đầu lâu nhe răng cuời bên cạnh để nhắc nhở tôi về những phù du của ham muốn nhân sinh. Tôi diễu cợt chiếc đầu lâu. Tôi nhìn nó và bảo: ” Mày chọn nhầm đối tượng rồi. Mày có quyền không tin vào cuộc đời, nhưng tao lại không tin vào sự chết. Đi chỗ khác!”. Chiếc đầu lâu nhúc nhắc rồi nhích lại gần hơn nhưng tôi chẳng ngạc nhiên. Lý do sự chết cứ bám riết lấy sự sống như vậy không phải là vì nhu cầu sinh học – đó là sự ghen tị. Sự sống đẹp đến nỗi sự chết đã phải lòng nó, một mối tình tư vị đầy ghen tuông quắp chặt lấy bất cứ thứ gì nó có thể động đến. Nhưng sự sống nhẹ nhàng bỏ qua, mất mát vài thứ chẳng gì đáng kể, và nỗi u buồn chỉ như một bóng mây bay. Thằng cu trắng hồng lại được thưởng cả học bổng Rhodes. Tôi yêu hắn và mong cho hắn học được thật nhiều thứ tại Oxford. Nếu như Lakshmi, nữ thần tài sản, có ngày nào đó ban phát cho tôi ân sủng của người thì Oxford sẽ đứng thứ năm trong danh sách các thành phố tôi muốn viếng thăm trước khi quá vãng, sau Mecca, Varanasi, Jerusalem và Paris.
Cuộc đời đi làm của tôi chẳng có gì đáng nói, chỉ trừ một nhận xét rằng cà-vạt là một cái thòng lọng, và mặc dù lộn ngược, nó sẽ treo cổ nguời ta đến chết nếu không thận trọng.
Tôi yêu Canada. Tôi nhớ cái nóng của Ấn Độ, nhớ các món ăn, bọn thằn lằn bò trên tường nhà, phim kịch hát trên truyền hình, lũ bò đủng đỉnh ngoài phố, lũ quạ kêu quàng quạc, nhớ đến cả những cuộc bàn tán về các trận đấu cricket (3), nhưng tôi yêu Canada. Một xứ sở vĩ đại tuy có hơi quá lạnh đối với người lành mạnh, nơi cư ngụ của những con người thông minh hăng hái, nhưng đầu tóc để không được đẹp. Dù sao Pondicherry chẳng còn có cái gì để tôi muốn quay về.
Richard Parker vẫn ỡ bên tôi. Chưa khi nào tôi quên được nó. Có dám nói tôi nhớ nó hay không ư? Có đấy. Tôi có nhớ nó. Vẫn thấy nó trong các giấc mơ. Phần lớn là ác mộng nhưng là ác mộng nhuốm màu tình yêu. Lòng nguời thật lạ. Tôi vẫn không thể hiểu nổi tại sao nó có thể bỏ tôi đi một cách dửng dưng như thế, không một cử chỉ chia tay nào, không hề ngoái lại lấy một lần. Nỗi đau như thể ai cầm rìu mà bổ vào tận tim vậy.
Các bác sĩ và hộ lý trong bệnh viện tại Mexico thật tốt với tôi hết chỗ nói. Cả các bệnh nhân cũng vậy. Bệnh nhân ung thư và nạn nhân tai nạn xe cộ, một khi đã nghe câu chuyện của tôi, họ chống nạng và lăn xe đến thăm tôi, họ và gia đình họ, mặc dầu không ai nói tiếng Anh, còn tôi thì không biết tiếng Tây Ba Nha. Họ mỉm cười với tôi, bắt tay tôi, vỗ về lên đầu tôi, để các món quà, thức ăn và quần áo lại trên giường tôi. Họ khiến tôi rơi vào những trận khóc trận cười không thễ ghìm lại được.
Chỉ trong vòng một ngày là tôi đã đứng lên được, thậm chí còn đi được một hai bước, mặc dù vẫn buồn nôn, chóng mặt và mệt mỏi toàn thân. Xét nghiệm máu cho thấy tôi thiếu hồng cầu nghiêm trọng, lượng muối thì cao mà kiềm thì thấp. Cơ thể tôi bị đọng dịch, hai chân phù ghê gớm. Trông tôi như một anh bị ghép đôi chân voi vậy. Nước giải thì đục, vàng sẫm gần như nâu. Thế mà sau đó độ 1 tuần, tôi đã có thể đi lại bình thường, và có thể đi giày nếu không buộc giây. Da dẻ tôi lành trở lại, mặc dù có sẹo ở vai và lưng.
Lần đầu tiên tôi vặn được vòi máy nước , dòng nước phụt ra thật ầm ĩ, phí phạm và xả láng đến nỗi tôi bị choáng, ngã ngất vào tay người hộ lý.
Lần đầu tôi đến một quán ăn Ấn Độ ở Canada, tôi bốc thức ăn bằng tay. Người hầu bàn nhìn tôi một cách nghiêm nghị và nói: ” Vừa dưới tàu mới lên phải không?”. Tôi tái người. Những ngón tay tôi, một giây truớc đó còn như những búp vị giác đang thưởng thức món ăn trước khi đưa chúng vào miệng, đột nhiên thành ra thật bẩn thỉu dưới ánh mắt của anh ta. Chúng cứng đơ lại như những kẻ tội phạm bị bắt quả tang. Tôi không dám liếm chúng, tôi lau chúng bằng giấy ăn như một kẻ có lỗi. Anh hầu bàn không thể biết câu nói của anh ta đã cứa những vết thương vào lòng tôi sâu đến thế nào. Chúng như những cái đanh nhọn đóng ngập vào ngực tôi. Tôi nhặt con dao và cái dĩa. Tôi thực sự không nhớ mình đã từng dùng những thứ đó bao giờ chưa. Hai bàn tay tôi run bắn. Dịch vị tôi khô kiệt.
(1)Kabala hoặc Cabala: hệ thống lý thuyết thần học bí truyền do các thầy cả Do Thái (rabbi) phát triển và lên tới đỉnh điểm trong các thế kỉ 12,13 có ảnh hưởng phần nào đến tư tưởng của một số triết gia Cơ Đốc giáo thời trung cổ và phục hưng. Cốt lõi của Cabala là phương pháp diễn giải kinh sách rất bí hiểm mà các tín đồ tin rằng giúp họ thâm nhập các bí mật thiêng liêng. Người theo thần học Cabala tin rằng muôn vật đều là biến hình của Thượng Đế và Linh hồn đã tồn tại từ cõi vô cùng. (ND)
(2)Memento mori: tiếng Latin, nghĩa là “nhắc ta nhớ đến cái chết” (ND)
(3) Cricket: Môn thể thao ngoài trời gần giống như môn bóng chày ờ Mỹ, rất phổ biến ở Ấn Độ (ND)
Chương 2
Anh sống ở Scarborough. Một người nhỏ nhắn, mảnh mai, cao không quá một thước sáu. Tóc đen, mắt đen. Bắt đầu hoa râm hai bên thái dương. Trông không thể quá bốn mươi. Nước da màu cà phê dễ chịu. Mói vào tiết thu mà đã khoác áo choàng mùa đông có mũ chùm lót lông để đi ăn tối. Gương mặt biểu cảm. Nói nhanh, hai tay huơ theo lời. Không chuyện vặt. Đã vào chuyện là kể liền.
Chương 3
Tên tôi là tên một cái bể bơi, cũng là chuyện lạ vì cha mẹ tôi chẳng bơi lội bao giờ. Một trong những người có công chuyện sớm nhất với ba tôi là ông Francis Adirubasamy. Ông trở thành người bạn tốt của gia đình. Tôi gọi ông là Mamaji. Tiếng Tamil, mama nghĩa là bác, còn ji là vĩ đại hay dùng ở Ấn Độ để biểu lộ lòng yêu mến và kính trọng. Khi ông còn trẻ nghĩa là rất lâu trước khi tôi ra đời, Mamaji là quán quân bơi lội của toàn vùng Nam Ấn. Cả đời trông ông lúc nào cũng ra một nhà quán quân. Anh Ravi của tôi có lần bảo rằng khi Mamaji lọt lòng mẹ, ông ấy vẫn đòi tiếp tục thở trong nước đến nỗi bác sĩ, để cứu sống ông, đã phải túm lấy hai chân thằng bé rồi quay tròn trên đầu mình một lúc.
“Như thế này này!” Ravi nói, tay quay tít trên đầu. “Thằng bé ho sặc hết nước ra và bắt đầu thở không khí, nhưng máu thịt nó bị quay dồn hết lên phần trên của cơ thể, nên ngực nó mới đầy thế và chân nó mới khẳng khiu thế”.
Tôi tin Ravi. (Anh Ravi là tên trêu người lưỡi nhọn. Lần anh gọi Mamaji là ” Ông Cả” ngay vào mặt tôi, tôi đã vứt vỏ chuối vào giường anh.) Ngay ở tuổi sáu mươi, khi Mamaji đã hơi còng và thịt ông đã hơi bị trọng lực kéo xuống dưới, ông vẫn hàng sáng bơi đủ 30 lần chiều dài của bể bơi Aurobindo Ashram (1)
Ông cố dạy cha mẹ tôi bơi, nhưng chẳng bao giờ cha mẹ tiến bộ quá mức lội xuống nước đến đầu gối ở bãi biển và làm các động tác khoát tròn. Nếu cha mẹ tôi đang tập bơi ếch chẳng hạn, thì trông như họ đang đi trong rừng, vừa đi vừa lấy tay vạch cỏ trước mặt. Còn nếu cha mẹ tập bơi sải thì trông như họ đang chạy từ trên đồi xuống và cứ phải vung tay cho khỏi ngã. Anh Ravi thì cũng kém hăng hái chẳng thua gì thế.
Mamaji phải đợi đến khi tôi xuất hiện để có thể có được một môn đệ hăng hái. Ngày tôi đến tuổi bơi lội, tức là lên 7, theo tuyên bố của Mamaji và khiến mẹ tôi phát phiền, ông đem tôi xuống bãi biển, khoát tay về phía chân trời và nói: “Đây là món quà của ta cho con.”
“Rồi ông ấy suýt để con chết đuối”. Mẹ tôi bảo vậy.
Tôi vẫn trung thành với thủy sư phụ của mình. Dưới con mắt canh chừng của ông, tôi nằm trên bãi biển, quẫy chân, quạt tay trên cát, đầu quay bên này bên kia để thở theo mỗi động tác. Chắc hẳn trông tôi như một thằng nhóc đang làm mình làm mẩy một cách chậm chạp rất lạ. Dưới nước, ông giữ cho tôi nổi và tôi hết sức bơi. Khó hơn nhiều so với tập trên cạn. Nhưng Mamaji kiên trì và đầy khích lệ.
Khi ông thấy tôi tiến bộ rồi, chúng tôi bắt đầu chấm dứt những cuộc chạy nhảy nô rỡn với những làn sóng xanh biếc
Like để ủng hộ YenBai.Mobi:
